Giới thiệu:
Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Tên khai sinh của Nguyễn Minh Châu là Nguyễn Thí. Chỉ tới khi đi học, bố mẹ mới đổi tên cho ông thành Minh Châu.
Trong những ngày nằm viện ở Bệnh viện Quân y 108, Nguyễn Minh Châu tự nhận xét về mình: “Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ”.
Nguyễn Minh Châu qua đời ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội, thọ 59 tuổi.
Các tác phẩm chính của ông:
- Cửa sông (tiểu thuyết, 1966),
- Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970),
- Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972),
- Miền cháy (tiểu thuyết, 1977),
- Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977)
- Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983),
- Bến quê (truyện ngắn, 1985),
- Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987),
- Cỏ lau (truyện vừa, 1989)...
Truyện ngắn Bức tranh được rút trong tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn trong thời kì này. Qua lời “tự thú” của một họa sĩ về bản thân mình, nhà văn đặt vấn đề : hãy biết vượt lên trên cái thấp hèn và ích kỉ, con người sẽ tìm được vẻ đẹp của cái thiện.
Thành công của nghệ thuật có đôi lúc là một cái gì rất cầu ơ, điều này có lẽ chỉ có anh em chúng tôi trong nghề với nhau mới thấu hiểu hết được. Chắc các bạn sẽ lấy làm lạ - cũng có thể chẳng lấy làm lạ - nếu được biết rằng cái "bức ảnh truyền thần" người chiến sĩ mà tôi đã vẽ vội vẽ vàng trong cái buổi mờ sáng ở trong rừng đó, về sau, hoàn toàn ngoài cả dự định của tôi, đã nghiễm nhiên trở thành một tác phẩm hội họa nổi tiếng của tôi, không những ở trong nước, mà cả ở nước ngoài nữa. Thật thế, chính bản thân tôi cũng không thể nào lường hết được quy luật đào thải của thời gian. Một điều thật đáng buồn là tất cả số tranh và ký họa mà tôi đã tốn biết bao công phu mang từ trong chiến trường ra chuyến đó, chẳng có một bức nào còn lại được, mặc dầu một số lớn đã được bày triển lãm, đã được in rải rác trên báo. Trong khi đó, "bức ảnh truyền thần của người thợ vẽ" thì lại còn lại mãi mãi, như một cái "đinh" của sự nghiệp sáng tác của tôi, trong những năm chiến tranh.
Đáng lý ra tôi không bao giờ đến cắt tóc ở cái hiệu ấy. Nhà tôi cũng như cơ quan tôi làm việc đều ở phía cuối thành phố. Vậy mà cái hiệu cắt tóc chẳng có gì đáng phải chú ý đó ở tận đầu phía tây bắc thành phố, lại nằm trên một phố nhỏ khuất nẻo có lẽ là lần đầu tiên tôi đặt chân đến. Sáng hôm đó, một buổi sáng mùa hè, tôi có công việc đến một cơ quan, nhưng người tôi định tìm gặp chẳng may lại đi vắng. Tôi dắt xe ra, lượn vòng vèo quanh mấy khu phố cổ phía bắc để ngắm nhìn những mái ngói, những mảng tường. Tôi lang thang với con mắt nghề nghiệp khoảng vài tiếng đồng hồ. Buổi sáng đó, nếu trong túi tôi có một mẩu bút chì và cuốn sổ ký họa thì sau đó không bao giờ tôi nảy ra cái ý định đi cắt tóc. Tôi bước vào một cửa hiệu có hai ghế nhưng cả hai đều đã có khách. Tôi liền quay ra, dắt xe men theo một bức tường rất dài. Cuối bức tường, có một cái quán bán nước mở ngay bên một cái ngõ, một đám đông thanh niên đang ngồi nhẩn nha uống nước chè chén và hút thuốc. Bên cạnh quán nước lại thấy một cái hiệu cắt tóc khác. Chẳng có gì đáng có thể được gọi là "cửa hiệu" cả: kề sát bên mái là quán nước, một mảnh vải ni-lông tăng bộ đội che lấy một khoảng đất bằng bốn chiếc chiếu nằm hơi thụt sâu xuống vương vãi đầy những lọn tóc. Một chiếc ghế mộc cũ kỹ, có lẽ do người thợ cắt tóc tự đóng lấy, trên thành ghế vắt một chiếc khăn choàng trắng khá sạch sẽ. Quán cắt tóc vắng thợ. Chỉ thấy một bà cụ già đang cầm chổi quét những lọn tóc vun vào một góc. Tôi dựng xe đạp vào bức tường phía ngoài vỉa hè, bước vào. Cái quán cắt tóc thoạt trông vẻ ngoài chẳng có gì hấp dẫn nhưng điều khiến tôi có cảm tình ngay là trên bức tường, phía trên tấm gương soi, có dán bức tranh nổi tiếng của tôi. Đó chính là bức ký họa chân dung người chiến sĩ đã "thồ" tranh cho tôi tám năm về trước.
Lúc bà cụ già ngẩng lên, tôi mới biết đó là một người lòa. Nghe tiếng chân của tôi bước vào, bà cụ cầm chiếc chổi ngẩng lên, từ từ hướng cặp mắt trắng đục về phía tôi. Tôi nhận thấy một nét rạng rỡ, hoan hỉ đang từ từ lan ra trên khuôn mặt bà:
"Mời ông ngồi chơi một lát. Cháu nó uống chén nước xong là bắt tay làm cho ông ngay! Thưa, ông chỉ đợi cho mấy phút thôi ạ!".
Tôi đáp "vâng" và đến ngồi vào chiếc ghế. Bà cụ lại tiếp tục quét, nhưng có lẽ vẫn còn áy náy sợ khách bỏ đi mất nên lại ngẩng lên: "Có báo mới cháu nó để trên bàn. Ông coi đi!". Tôi giơ tay cầm tờ báo trên hàng chai lọ và giở ngay trang tư có đăng nhiều tin tức thế giới.