Lặng lẽ Sapa là câu chuyện về cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ giữa ông họa sĩ, một cô kĩ sư với anh thanh niên 27 tuổi làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu ở một mình trên đỉnh núi cao của vùng đất Sapa. Hai người gặp chàng thanh niên này trong 30 phút tạm dừng chân khi đang đi trên chuyến hành trình của mình qua vùng đất Sapa. Chỉ ba mươi phút ngắn ngủi mà ba con người như hiểu thấu nhau, nhận ra được vẻ đẹp của nhau, cảm thấy yêu mến nhau thêm nhiều phần.
Câu chuyện là lời ngợi ca vẻ đẹp bình dị của con người và ý nghĩa lớn lao của những công việc thầm lặng.
Tác phẩm viết về tình cha con của ông Sáu và bé Thu. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến đã lâu. Vì lửa đạn ác liệt, vợ ông đi thăm chồng không mang được con theo, ông chỉ được nhìn con qua những bức ảnh. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Vừa về nơi, ông đã nhận ra con và sung sướng gọi nó. Bé Thu không nhận ba vì sẹo trên mặt làm ông Sáu khồng còn giống với người trong bức ảnh chụp mà em đã biết. Em đã đối xử với cha như người xa lạ. Ông Sáu vô cùng buồn rầu, đau khố tìm mọi cách săn sóc con mà không được.
Đến lúc bé Thu nhận ra ba, tình ba con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc iàm chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông hi sinh. Trước lúc nhắm mắt ông còn kịp trao cây lược cho người bạn. Bé Thu lớn lên trờ thành một cô giao liên dũng cảm và xinh đẹp. Trong một chuyến công tác, người bạn năm xưa của ông Sáu đã gặp được Thu và trao cho cô chiếc lược ngà.
Học làm người - Chia sẻ những câu chuyện hay về cuộc sống, về đạo lí làm người ở đời. Thông qua những câu chuyện này, tác giả mang đến cho chúng ta những bài học thú vị, kinh nghiệm ứng xử, giao tiếp và đạo làm người cần có trong cuộc sống.
Truyện ngắn: Đời thừa
Hộ là một văn sĩ nghèo mang trong mình nhiều hoài bão ước mơ. Anh là người có lí tưởng sống rất cao đẹp. Là một nhà văn, anh đã từng ước mơ có những tác phẩm lớn, có giá trị vượt thời gian. Nhưng từ khi cứu vớt cuộc đời Từ, cưới Từ về làm vợ, anh phải lo cho cuộc sống của cả gia đình chỉ với những đồng tiền ít ỏi của nghề viết văn. Hộ đã rơi vào tình trạng khốn khổ. Tạm gác ước mơ hoài bão để nuôi gia đình, nhưng rồi nỗi lo cơm áo và những dằn vặt lương tâm của một nhà văn đã biến anh thành một người đàn ông vũ phu. Anh uống say rồi hành hạ, đánh đập vợ con, rồi lại ân hận. Hộ rơi vào cái vòng luẩn quẩn, không lối thoát.
Đời thừa thể hiện tấn bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản, nguyên nhân của tấn bi kịch ấy là gánh nặng cơm áo. Hộ đồng thời rơi vào hai tấn bi kịch: bi kịch của người nghệ sĩ phải đang tâm chà đạp lên nguyên tắc sáng tạo của nghệ thuật chân chính, bi kịch của người cha người chồng phải chà đạp lên nguyên tắc tình thương do chính mình đề ra.
Qua bi kịch của nhà văn Hộ, Nam Cao thể hiện một tư tưởng nhân văn đẹp đẽ: tố cáo hiện thực, lên án sự tha hoá, cảm thông với những con người bất hạnh và khẳng định những quan điểm nghệ thuật chân chính…
Truyện kể về ông Hai rất yêu làng, yêu nước. Ông Hai phải đi tản cư nên ông rất nhớ làng và yêu làng, ông thường tự hào và khoe về làng Chợ Dầu giàu đẹp của mình, nhất là tinh thần kháng chiến và chính ông là một công dân tích cực.
Ở nơi tản cư, đang vui với tin chiến thắng của ta, bất chợt ông Hai nghe tin dữ về làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây. Ông cụt hứng, đau khổ, xấu hổ. Ông buồn chán và lo sợ suốt mấy ngày chẳng dám đi đâu, càng bế tắc hơn khi mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi không cho ở nhờ vì là người của làng Việt gian. Ông chỉ biết trút bầu tâm sự cùng đứa con trai bé nhỏ như nói với chính lòng mình: theo kháng chiến, theo Cụ Hồ chứ không theo giặc, còn làng theo giặc thì phải thù làng.
Nhưng đột ngột, nghe được tin cải chính làng Dầu không theo Tây, lòng ông phơi phới trở lại. Ông khoe với mọi người nhà ông bị Tây đốt sạch, làng Dầu bị đốt sạch, đốt nhẵn. Ông lại khoe và tự hào về làng Dầu kháng chiến như chính ông vừa tham gia trận đánh vậy.
Truyện kể về cuộc đời của Tnú, một người con kiên cường của dân làng Xô Man, Tây Nguyên qua lời kể trầm hùng của cụ Mết. Tnú vốn là một đứa con mồ côi được dân làng Xô Man che chở, nuôi lớn và trưởng thành. Ngay từ nhỏ Tnú đã tỏ ra gan gốc, dũng cảm lạ thường.
Tnú tuy học chữ rất chậm nhưng lại rất sáng dạ trong hoạt động giao liên, trong khi hoạt động Tnú bị địch bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú vẫn giữ một lòng trung thành với Đảng, với cách mạng. Sau khi ra tù, Tnú cưới Mai làm vợ, khi mới sinh được đứa con trai thì một sự việc đau lòng xảy ra. Bọn thằng Dục đã bắt mẹ con Mai để dụ Tnú ra đầu hàng nhưng Tnú không xuất hiện, chúng đã đánh đập dã man mẹ con Mai. Lòng căm thù trào dâng, Tnú xông ra cứu mẹ con Mai nhưng mẹ con Mai đã chết, Tnú bị bắt và bị đốt mười đầu ngón tay. Cụ Mết đã lãnh đạo dân làng Xô Man vùng dậy chém giết kẻ thù, giải thoát cho Tnú. Cũng từ đó dân làng Xô Man đã đứng dậy cầm giáo mác để bảo vệ buông làng của mình, còn Tnú thì tham gia lực lượng vũ trang.
Câu chuyện về Tnú và dân làng Xô Man là câu chuyện phản ánh sự vùng dậy mãnh liệt của nhân dân Tây Nguyên trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Truyện kể về lão Hạc, là một người nông dân nghèo, sống cô độc, chỉ có con chó Vàng làm bạn. Con trai lão vì nghèo ko lấy được vợ, đã phẫn chí bỏ làng đi làm ăn xa. Lão Hạc ở nhà chờ con về, làm ăn thuê để kiếm sống.
Sau một trận ốm dai dẳng, lão ko còn sức đi làm thuê nữa. Ko còn đường sinh sống, lão Hạc lặng lẽ đi đến một quyết định quan trọng. Lão bán con chó Vàng mà lão rất mực yêu thương, mang hết số tiền dành dụm được và cả mảnh vườn gửi cho ông Giáo trông coi hộ.
Lão chịu đói, chỉ ăn khoai và sau đó "lão chế tạo được món gì, ăn món nấy ". Ông Giáo ngấm ngầm giúp đỡ nhưng lão tìm cách từ chối. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó, nói để đánh bả chó làm thịt và rủ Binh Tư uống rượu. Ông Giáo rất buồn khi nghe Binh Tư kể chuyện ấy.
Lão Hạc bỗng nhiên chết - một cái chết thật dữ dội. Cả làng ko ai hiểu vì sao lão chết, chỉ có Binh Tư và ông Giáo hiểu lão ăn bả chó để tự tử.
Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Tên khai sinh của Nguyễn Minh Châu là Nguyễn Thí. Chỉ tới khi đi học, bố mẹ mới đổi tên cho ông thành Minh Châu.
Trong những ngày nằm viện ở Bệnh viện Quân y 108, Nguyễn Minh Châu tự nhận xét về mình: “Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ”.
Nguyễn Minh Châu qua đời ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội, thọ 59 tuổi.
Các tác phẩm chính của ông:
- Cửa sông (tiểu thuyết, 1966),
- Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970),
- Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972),
- Miền cháy (tiểu thuyết, 1977),
- Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977)
- Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983),
- Bến quê (truyện ngắn, 1985),
- Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987),
- Cỏ lau (truyện vừa, 1989)...
Truyện ngắn Bức tranh được rút trong tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn trong thời kì này. Qua lời “tự thú” của một họa sĩ về bản thân mình, nhà văn đặt vấn đề : hãy biết vượt lên trên cái thấp hèn và ích kỉ, con người sẽ tìm được vẻ đẹp của cái thiện.